BẢN ÁN HÌNH SỰ PHÚC THẨM 01/2015/HSPT1 NGÀY 14-01-2015 VỀ VỤ ÁN NGUYỄN VĂN ANH VÀ CÁC ĐỒNG PHẠM PHẠM TỘI "CƯỚP GIẬT TÀI SẢN"

TÒA ÁN QUÂN SỰ TRUNG ƯƠNG

...

Ngày 14-1-2015 tại Tòa án quân sự Quân khu 5 đã mở phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 09/2014/HSPT1 ngày 17-10-2014 đối với các bị cáo Nguyễn Văn Anh và các bị cáo khác do có kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự Quân khu 2 đối với bản án hình sự sơ thẩm số 01/2014/HSST ngày 20-2-2014 của Tòa án quân sự Quân khu 2.

Bị cáo bị kháng nghị:

1. Nguyễn Văn Anh (tên gọi khác: Beo), sinh ngày 14-02-1995 tại Quảng Nam; nhập ngũ tháng 02/2013; cấp bậc, chức vụ, đơn vị khi phạm tội: Binh nhất, chiến sỹ, Kho kỹ thuật K55, Cục Kỹ thuật, Quân khu 5; giấy CMND số: 205953058, do Công an tỉnh Quảng Nam cấp ngày 20/4/2012; trình độ văn hóa: 10/12; con ông Nguyễn Phu, sinh năm 1970; nghề nghiệp: làm ruộng và bà Phan Thị Mai, sinh 1970; nghề nghiệp: làm ruộng; gia đình có 3 anh chị em, bị cáo là con thứ 2; tiền án, tiền sự: không; bị bắt tạm giữ ngày 15-5-2014; tạm giam từ ngày 23-5-2014, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Quân khu 5. Có mặt.

2. Trần Thanh An, sinh ngày 31-5-1996; nơi cư trú: xã Cẩm Thanh, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam; nghề nghiệp: học sinh; giấy CMND số: 206217236, do Công an tỉnh Quảng Nam cấp ngày 23-7-2013; trình độ văn hóa: đang học lớp 12; con ông Trần Thanh, sinh năm 1972; nghề nghiệp: đánh bắt hải sản và bà Phạm Thị Bé, sinh 1972; nghề nghiệp: nội trợ; gia đình có 2 anh chị em, bị cáo là con thứ nhất; tiền án, tiền sự: không; bị bắt tạm giữ
ngày 15-5-2014; tạm giam từ ngày 23-5-2014, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Quân khu 5. Có mặt.

3. Trần Mỹ Lai, sinh ngày 01-6-1991; nơi cư trú: xã Duy Hải, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam; nghề nghiệp: nấu ăn nhà hàng; giấy CMND số: 205840356, do Công an tỉnh Quảng Nam cấp ngày 11-5-2011; trình độ văn hóa: 8/12; con ông Trần Văn Hiền, sinh năm 1964; nghề nghiệp: làm ruộng và bà Huỳnh Thị Hai, sinh 1962; nghề nghiệp: làm ruộng; gia đình có 5 anh chị em, bị cáo là con thứ 2; Vợ: Phạm Thị Thúy Vi, sinh 1990; tiền án, tiền sự: không; bị bắt tạm giữ ngày 30-5-2014, đến ngày 03-7-2014 được thay đổi biện pháp ngăn chặn từ Tạm giam sang Bảo lĩnh. Có mặt.

NHẬN THẤY

Theo bản án hình sự số 01/2014/HSST ngày 10-9-2014 của Tòa án quân sự Quân khu 5, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ ngày 13-5-2014, Nguyễn Văn Anh cùng với Trần Thanh An, Trần Mỹ Lai, Nguyễn Văn Toàn, Nguyễn Văn Tư và Trần Văn Điệp ngồi uống rượu tại đường bờ kè thuộc khối Thanh Nam, phường Cẩm Châu, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. Đến 02 giờ 15 phút ngày 14-5-2014, Anh nói “Bây giờ đi làm phi vụ để có tiền nhậu tiếp”, Lai hỏi “Phi vụ gì”, Anh trả lời “Đi giật đồ của Tây”, Lai nói tiếp “Để tao đi tìm cho”. Nói xong, An điều khiển xe mô tô BKS 92D1 -142.19 chở Anh đi về phía khu vực phố cổ Hội An. Khi đến đường Cửa Đại, Anh và An thấy có 4 người nước ngoài đang đi bộ hàng ngang cùng chiều phía trước bên phải đường, Anh bảo An chạy xe vượt qua họ rồi quay lại. An điều kiển xe chạy vượt qua khoảng 50m, rồi quay lại, chạy áp sát vào chị Jaeger Samantha Ashlee đang đi bộ phía ngoài cùng. Anh dùng tay trái giật túi xách của chị Jaeger Samantha Ashlee đang cầm trên tay, trong túi có 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5 và 500.000 đồng.

Khi An chở Anh đi, Lai lấy xe mô tô BKS 92S2-9284 và bảo Toàn lên xe cùng đi. Toàn hỏi “Đi đâu”, Lai nói “Cứ đi”. Lai điều khiển xe chở Toàn đi qua một số tuyến đường, phát hiện có hai người nước ngoài đang đi bộ trên đường Trần Quang Khải. Lai điều khiển xe về đến bờ kè thì gặp An chở Anh cũng vừa về đến nơi, Lai nói với Anh “Có hai người Tây ở đằng kia”, Anh hỏi lại “Đoạn nào”, Lai trả lời “Đoạn gần quán Tý Gia”. An điều khiển xe chở Anh đi theo hướng Lai đã chỉ, khi đến đường Trần Quang Khải, thấy có hai người nước ngoài đi bộ cùng chiều phía trước bên trái đường, Anh bảo An điều khiển xe vượt qua rồi quay lại, khi đến sát chị Sofieke Pauline De Wilde, Anh dùng tay phải giật túi xách của chị Sofieke Pauline De Wilde đang đeo trên người, trong túi có 01 điện thoại di động Iphone 5c và 1.000.000 đồng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 01/2014/HSST ngày 10-9-2014 của Tòa án quân sự Quân khu 5 đã quyết định:

Về hình sự: Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn Anh, Trần Thanh An và Trần Mỹ Lai phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 136; điểm p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; khoản 1, 2 Điều 20; Điều 53 Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Văn Anh 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ 15-5-2014.

Áp dụng khoản 1 Điều 136; điểm b, p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; khoản 1, 3, 5 Điều 69; khoản 1 Điều 74; khoản 1, 2 Điều 20; Điều 53 Bộ luật hình sự, xử phạt Trần Thanh An 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ 15-5-2014.

Áp dụng khoản 1 Điều 136; điểm b, p khoản 1 Điều 46; khoản 1, 2 Điều 20; Điều 53; khoản 1, 2 Điều 60 Bộ luật hình sự, xử phạt Trần Mỹ Lai 12 (mười hai) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách của bị cáo là 24 tháng kể từ ngày tuyên án 10-9-2014. Giao bị cáo Trần Mỹ Lai cho Ủy ban nhân dân xã Duy Hải, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về tính lãi suất chậm trả, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của bị cáo và đương sự.

Ngày 09-10-2014 Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự Trung ương kháng nghị bản án hình sự sơ thẩm số 01/2014/HSST ngày 10-9-2014 của Toà án quân sự Quân khu 5 về phần áp dụng khoản 1 Điều 136 Bộ luật hình sự để xét xử đối với các bị cáo Nguyễn Văn Anh, Trần Thanh An, Trần Mỹ Lai và phần quyết định hình phạt đối với các bị cáo. Đề nghị áp dụng điểm d khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình sự về tội “Cướp giật tài sản” và tăng hình phạt đối với các bị cáo.

Tại phiên toà phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung kháng nghị.

Tranh luận tại phiên tòa, ông Kiểm sát viên cho rằng kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự Trung ương là hợp lệ và viện dẫn các chứng cứ, chứng minh làm rõ tính chất, mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội của các bị cáo. Tòa án quân sự Quân khu 5 xét xử các bị cáo Nguyễn Văn Anh, Trần Thanh An, Trần Mỹ Lai về tội “Cướp giật tài sản” là có căn cứ, đúng pháp luật. Tuy nhiên, Tòa án quân sự Quân khu 5 lại xét xử các bị cáo theo khoản 1 Điều 136 Bộ luật hình sự là chưa đúng hướng dẫn tại điểm 5.3 mục I Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TATC-VKSTC-BCA-BTP ngày 25-12-2001 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an và Bộ Tư pháp về áp dụng một số quy định tại Chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của Bộ luật hình sự năm 1999. Trong vụ án này, Trần Thanh An điều khiển xe mô tô BKS 92 D1 - 142.19 chở Nguyễn Văn Anh để cướp giật tài sản của các chị Jaeger Samantha Ashlee và Sofieke Pauline De Wilde là “Dùng thủ đoạn nguy hiểm” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình sự. Trần Mỹ Lai tiếp nhận ý chí của Nguyễn Văn Anh, sau khi An chở Anh đi, Lai cũng lấy xe mô tô BKS 92 S2 - 9284 đi tìm và chỉ địa điểm của người nước ngoài để Anh, An giật tài sản. Do đó, phải xét xử các bị cáo theo điểm d khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình sự mới đúng quy định của pháp luật. Việc Tòa án quân sự Quân khu 5 chỉ xử phạt các bị cáo Nguyễn Văn Anh 18 tháng tù, Trần Thanh An 09 tháng tù, Trần Mỹ Lai 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo là quá nhẹ chưa tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và hậu quả của tội phạm do các bị cáo gây ra.

Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm Tòa án quân sự Trung ương, chấp nhận kháng nghị, áp dụng điểm d khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình sự về tội “Cướp giật tài sản” để xét xử đối với các bị cáo Nguyễn Văn Anh, Trần Thanh An, Trần Mỹ Lai. Tăng hình phạt tù đối với các bị cáo Nguyễn Văn Anh, Trần Thanh An; tăng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo và tăng thời gian thử thách đối với bị cáo Trần Mỹ Lai.

Các bị cáo không có ý kiến gì.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã đ­­ược thẩm tra tại phiên toà phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và của các bị cáo,

XÉT THẤY

Chỉ vì không có tiền ăn nhậu, tối ngày 13-5-2014 rạng sáng ngày 14-5-2014 các bị cáo Nguyễn Văn Anh, Trần Thanh An, Trần Mỹ Lai sau khi ăn nhạu, đã nảy sinh ý định đi cướp giật tài sản của những người nước ngoài tại thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. Khi Anh đề xuất việc đi cướp giật tài sản của những người nước ngoài thì đã được An và Lai đồng tình. Trần Thanh An đã điều khiển xe mô tô chở Nguyễn Văn Anh, Trần Mỹ Lai thì điều khiển xe mô tô chở Nguyễn Văn Toàn đi tìm người nước ngoài để chỉ cho Anh và An cướp giật tài sản. Trong một thời gian ngắn An đã điều khiển xe mô tô chở Anh thực hiện hai lần “Cướp giật tài sản” của những người nước ngoài đang đi bộ trên đường. Tài sản mà các bị cáo cướp giật được là 02 chiếc điện thoại di động Iphone 5 và số tiền 1.500.000đ.

Hội đồng xét xử thấy rằng, kháng nghị của Viện kiểm sát là hợp lệ. Tại bản kháng nghị cũng như tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, Viện kiểm sát đã căn cứ vào Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TATC-VKSTC-BCA-BTP ngày 25-12-2001 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an và Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của Bộ luật hình sự năm 1999 để cho rằng Tòa án quân sự Quân khu 5 xét xử các bị cáo Nguyễn Văn Anh, Trần Thanh An, Trần Mỹ Lai về tội “Cướp giật tài sản” theo khoản 1 Điều 136 Bộ luật hình sự là chưa đúng. Do đó, phải xét xử các bị cáo theo điểm d khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình sự mới đúng quy định của pháp luật. Theo hướng dẫn tại điểm 5.3 mục I Thông tư liên tịch nêu trên thì “Dùng thủ đoạn nguy hiểm” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình sự là dùng thủ đoạn để cướp giật tài sản mà nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của người bị hại hoặc của người khác và cho ví dụ như dùng xe mô tô, xe máy để thực hiện việc cướp giật tài sản.

Hội đồng xét xử cho rằng, không phải mọi trường hợp dùng mô tô, xe máy để cướp giật tài sản đều áp dụng “Dùng thủ đoạn nguy hiểm” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình sự mà phải căn cứ vào từng vụ án cụ thể, từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể. Bởi lẽ, bản chất hướng dẫn của Thông tư 02 là dùng thủ đoạn để cướp giật tài sản mà nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của người bị hại hoặc của người khác. Trong vụ án này, các bị cáo Nguyễn Văn Anh, Trần Thanh An tuy có sử dụng xe mô tô để “Cướp giật tài sản” nhưng cướp giật của người đang đi bộ, trong điều kiện tại thời điểm đêm khuya vắng vẻ không có người khác lưu thông trên đường. Thực tế trong vụ án này, các bị cáo thực hiện hành vi cướp giật đã không làm cho những người bị hại ngã hay gây thương tích gì cho họ nên tính nguy hiểm bị hạn chế. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội “Cướp giật tài sản” theo khoản 1 Điều 136 Bộ luật hình sự là phù hợp với tính chất hành vi phạm tội của các bị cáo. Vì vậy, không có cơ sở đáp ứng kháng nghị của Viện kiểm sát về áp dụng tình tiết “Dùng thủ đoạn nguy hiểm” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình sự .

Về hình phạt, Hội đồng xét xử thấy rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đến vai trò, trách nhiệm và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của từng bị cáo để xử phạt Nguyễn Văn Anh 18 tháng tù, Trần Thanh An 09 tháng tù, Trần Mỹ Lai 12 tháng tháng tù nhưng cho hưởng án treo là phù hợp, đủ để răn đe, cải tạo các bị cáo thành những người có ích cho xã hội sau này. Mặt khác, các bị cáo tuổi đời còn rất trẻ, có bị cáo khi phạm tội còn là người chưa thành niên, nhận thức hạn chế; đều xuất thân từ gia đình lao động, có nhân thân tốt; chưa có tiền án, tiền sự; nhất thời phạm tội. Nên không cần thiết phải tăng hình phạt đối với các bị cáo như kháng nghị của Viện kiểm sát.

 Vì các lẽ trên, căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 248 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử phúc thẩm Toà án quân sự Trung ương,

QUYẾT ĐỊNH

1. Không chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát quân sự Trung ương và giữ nguyên bản án sơ thẩm số 01/2014/HSST ngày 10-9-2014 của Tòa án quân sự Quân khu 5 về phần hình sự đối với các bị cáo.

Áp dụng khoản 1 Điều 136; điểm p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; khoản 1, 2 Điều 20; Điều 53 Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Văn Anh 18 (mười tám) tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ 15-5-2014.

Áp dụng khoản 1 Điều 136; điểm b, p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; khoản 1, 3, 5 Điều 69; khoản 1 Điều 74; khoản 1, 2 Điều 20; Điều 53 Bộ luật hình sự, xử phạt Trần Thanh An 09 (chín) tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ 15-5-2014.

Áp dụng khoản 1 Điều 136; điểm b, p khoản 1 Điều 46; khoản 1, 2 Điều 20; Điều 53; khoản 1, 2 Điều 60 Bộ luật hình sự, xử phạt Trần Mỹ Lai 12 (mười hai) tháng tháng tù, nhưng cho hưởng án treo về tội “Cướp giật tài sản”, thời gian thử thách của bị cáo là 24 (hai mươi bốn) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 10-9-2014. Giao bị cáo Trần Mỹ Lai cho Ủy ban nhân dân xã Duy Hải, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

2. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm số 01/2014/HSST ngày 10-9-2014 không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

 

Tên bản án

BẢN ÁN HÌNH SỰ PHÚC THẨM 01/2015/HSPT1 NGÀY 14-01-2015 VỀ VỤ ÁN NGUYỄN VĂN ANH VÀ CÁC ĐỒNG PHẠM PHẠM TỘI "CƯỚP GIẬT TÀI SẢN"

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án